(TVPLVNO) – Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) phối hợp với Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) giao Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) đã tổ chức buổi tham vấn pháp luật miễn phí dành cho các doanh nghiệp thành viên Câu lạc bộ Doanh nhân IMRIC – IRLIE (Viện IMRIC) và Câu lạc bộ Báo chí Truyền thông&Chính sách pháp luật (Viện IRLIE) vào sáng ngày 21/11/2025, tại số 44/67, phố Cảm Hội, phường Dống Mác, quận Hai Bà Trưng (cũ) và đầu cầu phía Nam tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Có thể thấy, trong quá trình hoạt động của Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE) luôn xem công tác trợ giúp pháp lý góp phần giúp người dân giảm nghèo về pháp luật, do đó, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2017 đều xác định người nghèo là nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên trong các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý…
Đồng thời, truyền tải nội dung trên các trang tin điện tử, mạng xã hội, tạp chí in như: www.huongnghiepthitruong.vn (Viện IMRIC); www.chinhsachphapluat.vn (Viện IRLIE); www.tuvanphapluatvietnam.vn (Trung tâm TVPLMS); www.thamvanphapluat.vn (Trung tâm TTLCC); www.nghiencuupldautu.vn và www.phattrienspcongnghe.vn (Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam “AVRCIPL”); www.bestlife.net.vn; www.doanhnghiepnongnghiep.vn (liên kết Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam); www.vanhoacongdong.vn (Hiệp hội Phát triển Văn hoá cộng đồng Việt Nam)…
Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn sẵn sàng hỗ trợ về công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế được triển khai đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc và được thực hiện thường xuyên, trong đó chú trọng các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người yếu thế như: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở; nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý…
Cùng với đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý được Viện IMRIC; Viện IRLIE; Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn tuyên truyền về các vụ việc trợ giúp pháp lý, với mong muốn ngày càng được nâng cao, nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân…Đặc biệt, trongsuốt thời gian qua trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo việc xét xử vụ việc khách quan, đúng người, đúng tội, tránh được oan sai cho người dân cũng như đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý đã giúp người dân sử dụng pháp luật khi có tranh chấp, vướng mắc, giúp người dân “giảm nghèo về pháp luật”, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, người dân yên tâm lao động để giảm nghèo về kinh tế…
Tại buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí lần này, các luật gia, luật sư, tư vấn viên, cộng tác viên tư vấn pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn (TTTVPLMS) đã tham vấn về hai trường hợp cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất: Cưới nhau, không đăng ký kết hôn, liệu có phạm luật?

Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Cưới nhau, không đăng ký kết hôn có vi phạm pháp luật hay không?
Phap luật hiện hành không có quy định bắt buộc nam nữ đã tổ chức đám cưới, sống chung với nhau như vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn. Vì vậy, việc cưới nhau mà không đăng ký kết hôn là không vi phạm pháp luật. Mặc dù vậy, nếu chung sống như vợ chồng với người đang có vợ/chồng khác thì đó là hành vi vi phạm pháp luật về chế độ hôn nhân một vợ một chồng và có thể bị xử phạt hành chính hoặc hình sự tùy trường hợp.
Căn cứ Luật Hôn nhân và Gia đình thì hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Do đó, khi hai người tổ chức đám cưới và sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn thì cũng không được công nhận là hôn nhân, do đó không phát sinh quan hệ vợ chồng. Vì không phát sinh quan hệ vợ chồng nên khi hai người muốn chấm dứt mối quan hệ thì không cần phải làm thủ tục ly hôn tại tòa án.
Đối với tài sản: khi hai người không đăng ký kết hôn sẽ xảy ra các vấn đề sau. Nếu tài sản đứng tên một người thì về pháp luật người kia sẽ không có bất kỳ quyền lợi nào về tài sản đó. Nếu tài sản đứng tên hai người thì đó là tài sản chung theo phần, không phải là tài sản chung của vợ chồng.
Ngược lại, khi hai người đăng ký kết hôn thì tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản chung của vợ chồng bao gồm: tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ một số trường hợp quy định riêng. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung cũng được xem là tài sản chung của vợ chồng.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Đối với con, nếu không đăng ký kết hôn thì khi người cha muốn đứng tên trên khai sinh của con phải làm giấy nhận con theo quy định.
Khi hai người là vợ chồng hợp pháp, việc ghi tên người cha lên giấy khai sinh sẽ căn cứ vào giấy đăng ký kết hôn mà không cần phải có giấy cam kết nhận con. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
Luật Hôn nhân và Gia đình còn quy định về tình nghĩa vợ chồng. Đó là vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau…
Trong đó, Luật còn ràng buộc nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn. Theo đó, khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.
Cùng với đó, pháp luật không bắt buộc nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng phải đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, khi hai người xác định gắn bó với nhau để xây dựng một gia đình bền vững thì xinkhuyến nghị nên đăng ký kết hôn để được pháp luật bảo vệ về tài sản chung, con chung, về nghĩa vụ của vợ chồng…
Trường hợp thứ hai: Vợ chồng con trai ly hôn, ông bà có quyền nhận nuôi cháu nội không?

Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE băn khoăn: Khi vợ chồng muốn ly hôn. Bởi, người vợ từng thú nhận đã ngoại tình vì “mệt mỏi khi phải sống với người chồng say xỉn suốt ngày”. Như vậy, trong trường hợp này ông hay bà có được yêu cầu nhận nuôi cháu không?
Tình huống do quý doanh nhân trình bày, là vấn đề khá phổ biến trong các vụ ly hôn có yếu tố tranh chấp quyền nuôi con. Dưới góc độ pháp lý, cần xem xét nguyên tắc chung khi cha mẹ ly hôn theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
Qua đó, cả hai người vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Dựa vào quy định này, quý doanh nghiệp không đương nhiên được quyền nuôi cháu, vì quyền nuôi trước hết vẫn thuộc về cha hoặc mẹ. Thế nhưng, theo Luật Hôn nhân và Gia đình, trong trường hợp đặc biệt, ông bà có thể được giao quyền nuôi cháu.
Căn cứ vào khoản 4 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình: “Trong trường hợp cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, thì Tòa án giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự”.
Tại Điều 47 và Điều 52 Bộ luật Dân sự 2015, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên là: anh, chị ruột; ông, bà nội; ông, bà ngoại; bác, chú, cậu, cô, dì ruột nếu có đủ điều kiện theo quy định.
Vì lẻ đó, trong trường hợp của quý doanh nhân nêu – con trai mắc chứng nghiện rượu, thường xuyên có hành vi bạo lực; con dâu ngoại tình và có thể sắp tái hôn; cháu nội mới 5 tuổi – điều kiện nuôi dưỡng của cả cha lẫn mẹ đều không bảo đảm, có khả năng con sẽ bị bỏ bê.
Vì vậy, quý doanh nhân, với tư cách là bà nội, hoàn toàn có thể đề nghị Tòa án xem xét giao cháu cho mình trực tiếp nuôi dưỡng với tư cách người giám hộ hoặc người nuôi dưỡng thay thế theo quy định của pháp luật.
Trên đây là hai trường hợp được các luật gia, luật sư, tư vấn viên pháp luật của Trung tâm đã trực tiếp tham vấn pháp lý miễn phí. Với mong muốn quý doanh nghiệp hiểu thấu đáo pháp luật để hoạt động kinh doanh, tuyên truyền viên cho các thành viên trong gia đình, lối xóm sống, hoạt động kinh doanh luôn thượng tôn pháp luật.
PCVP Viện IMRIC, Trương Hữu Phước – CVP Trung tâm tư vấn pháp luật Minh Sơn



